Thùy thái dương chiếm 22% tổng thể tích vỏ não, chứa các vùng não quan trọng và liên quan trực tiếp đến chức năng ngôn ngữ, cảm xúc, trí nhớ và giác quan. Cấu trúc này bị tổn thương có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về nhận thức, giác quan, cách hiểu, nói ngôn ngữ…
Thùy thái dương chiếm 22% tổng thể tích vỏ não, chứa các vùng não quan trọng và liên quan trực tiếp đến chức năng ngôn ngữ, cảm xúc, trí nhớ và giác quan. Cấu trúc này bị tổn thương có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về nhận thức, giác quan, cách hiểu, nói ngôn ngữ…
Để chẩn đoán các tình trạng sức khỏe ở thùy thái dương, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện các xét nghiệm sau:
Về cách Thái Dương cặp với Cự Môn tức “Cự Nhật đồng lâm”, hãy xếp qua phía Cự Môn. Ngoài ra còn những cách: Nhật Nguyệt đồng cung Sửu /Mùi, Nhật Nguyệt chiếu bích, Nhật Nguyệt tịnh minh.
Thái Dương ý tượng là Mặt Trời. Cổ ca trong Tử Vi Đẩu số Toàn Thư viết: “Từ ái lượng khoan đại. Phúc thọ hưởng hà linh ” (Lòng từ thiện, quảng đại, tuổi thọ lâu dài). Thái Dương ví như
Mặt Trời chiếu sáng cho vạn vật. Cây cỏ đất đai người vật thiếu ánh nắng không thể sống. Nhưng vạn vật lại không bao giờ phải đền đáp cái ân đó, Thái Dương chỉ cho đi thôi mà không nhận lại.
Thái Dương mặt hóp thân gầy/ Thông minh tươm tất thảo ngay hiền hoà Câu phú nôm trên, dĩ nhiên, không thể nào nói hết được tấm lòng bao dung của Thái Dương.
Hiểu rõ bản chất của Thái Dương ta đem so sánh với Thái Âm thì thấy rằng “Thái Dương thường hành động là để phục vụ, để trợ giúp, trong khi Thái Âm thì lại thường hành động vì tư lợi bản thân”. Vì vậy cố nhân mới bảo Thái Dương “Quý nhi bất Phú” còn Thái Âm là tài tinh, cái tâm Thái Âm ưa hưởng thụ, vơ vét.
Thái Dương thủ Mệnh vào hành chính, y khoa hoặc công tác xã hội thì hợp và có thể đạt địa vị cao. Nhưng buôn bán kinh doanh hoặc làm những việc gì cần mưu lợi, thủ đoạn lại thường rất dở. Trong khi Thái Âm dễ vào kinh doanh, không phải vì Thái Âm giảo quyệt nhưng Thái Âm tham hơn.
Thái Dương chủ Qúy cho nên khi đoán Thái Dương thủ Mệnh phải căn cứ trên chức vị, danh vọng. Không phải bất phú là nghèo. Có địa vị, tất nhiên địa vị càng cao tiền càng nhiều.
Bất phú nghĩa là không tự mình làm nên giàu có thế thôi. Ở trường hợp Thái Dương đóng Tài Bạch cung đắc địa lại khác.
Thái Dương cần nhất đắc địa thì ánh sáng mới quang minh. Thái Dương đóng Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ là Mặt Trời rực rỡ buổi sáng buổi trưa. Thái Dương đóng Dậu, Tuất Hợi ví như Mặt Trời buổi đêm đã mất quang huy.
Ngoài đứng đúng chỗ, Thái Dương còn đòi hỏi người mang số Thái Dương phải sinh ban ngày mới là hợp cách, sinh ban đêm giảm đi. Sinh ban ngày dù Thái Dương hãm cũng nửa hung nửa cát, sinh ban đêm Thái Dương hãm tuyệt đối hung.
Thái Dương được cổ nhân gọi bằng “trung thiên chi chủ” (chủ tinh giữa trời), giống sao Tử Vi cần bách quan tề tựu. Tất nhiên không bao giờ có Thiên Phủ, Thiên Tướng triều củng.
Cách đẹp là Thái Dương đóng ở Thìn hội chiếu Thái Âm đóng ở Tuất, gọi là Nhật Nguyệt song huy hay Nhật Nguyệt tịnh minh. Thái Dương thuộc Hoả, quang minh chính đại, thông minh sái lệ, tài hoa.
Trong Ngũ hành trí tuệ Thuỷ có sự khác biệt nhau. Trong hàng ngũ các sao, sự đa tài của Thái Dương cũng vậy, khác với sự đa tài của Thiên Cơ.
Trí tuệ của Âm Mộc thâm trầm. Trí tuệ của Dương Hoả quang minh lộ liễu
Thái Dương đa tài về mặt biểu hiện làm chính trị, ra đám đông hoặc vào nghệ thuật biểu diễn như nhạc họa, kịch nghệ là hợp cách. Thiên Cơ đa tài với kế hoạch trong bóng tối, làm chính trị ở địa vị nghiên cứu, phân tích tình báo hoặc vào Thuật Số Âm Dương viết văn là hợp cách.
Thái Dương thuộc Bính – Hoả mãnh liệt, hoá khí là “Qúy” chứa chất phản kháng tính. Phá Quân cũng phản kháng nhưng thường có khuynh hướng phản nghịch. Khác nhau thế nào? Vì Thái Dương bản chất quang minh, thấy điều trái thì chống, nhưng chống đối với nguyên tắc không đi quá đà đến mức phản nghịch. Trong khi Phá Quân cương mãnh làm theo ý mình muốn, dễ quá khích đi đến phản nghịch.
Thái Dương đóng cung Quan lộc đắc địa ý niệm khai sáng mở lối cao và vững. Một ngành nào đang trên đà xuống dốc vào tay người Thái Dương Quan Lộc khả dĩ sẽ hưng thịnh trở lại. Thái Dương ở Tài Bạch dễ có tiền, ưa phô trương tiền bạc qua ăn chơi, chưng diện…
Mệnh Thái Dương có một cách đặc biệt, ấy là Thái Dương thủ Mệnh tại Hợi. Tại Hợi cung Thái Dương là phản bối. Thái Dương mất đi vẻ huy hoàng – tương ý là Mặt Trời đêm. Thái Dương tại Hợi đi vào một trong hai tình trạng cực đoan: hay cũng vô cùng mà dở cũng vô cùng; rất thuận lợi hoặc rất khốn khó.
Thái Dương đóng Hợi nếu có trợ giúp của Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt thì tuy thất huy nhưng vẫn được cải thiện nhiều, có một đời sống dễ dãi được. Thái Dương cư Hợi lại hay vô cùng nếu như nó gặp Thiên Mã, Hóa Lộc, Lộc Tồn tức cách Lộc Mã giao trì. Cách này bỏ xứ bỏ quê mà đi rồi phấn đấu thành công phú quí.
Thái Dương tại Hợi gọi bằng Nhật trầm thủy để (Mặt Trời chìm sâu đáy nước) có Lộc Mã giao trì lại thêm cả Binh Hình Tướng Ấn thì ăn to vào thời loạn. Chư tinh vấn đáp viết: “Thái Dương được các cát tinh khác thủ hay chiếu, rồi lại có Thái Âm đồng chiếu giàu sang đủ cả…Nếu Thân cung Thái Dương đắc địa mà gặp nhiều cát tinh khả dĩ làm môn hạ khách chốn công hầu, hoặc làm dân chạy cờ cho bậc công khanh”.
Thái Dương vào Mệnh với vào Thân cung rõ ràng tạo ảnh hưởng khác biệt hẳn. Một đằng tự mình gầy dựng phú quí, một đằng chỉ làm môn hạ khách ở nơi cửa quyền. Trừ trường hợp Mệnh cung tự nó có cách tốt riêng. Trường hợp Thân cư Phối thì số gái lấy chồng sang, số trai được vợ giàu sang hoặc gia đình vợ thế lực nâng đỡ, nhờ vả nhà vợ mà lên to.
Thái Dương ưa Xương Khúc và sợ Hóa Kỵ. Có lý luận cho rằng nếu Thái Dương đắc địa gặp Hóa Kỵ càng tốt. Hóa Kỵ như đám mây ngũ sắc khiến Thái Dương thêm rực rỡ. Không phải vậy, Thái Âm gặp Hóa Kỵ đắc địa, Hóa Kỵ khả dĩ biến thành đám mây ngũ sắc, còn với Thái Dương thì không.
Hóa Kỵ là đám mây đen, là ám tinh trong khi tính chất căn bản của Thái Dương là quang minh, quang với ám chẳng thể hợp cùng. Nhất là Mệnh nữ Thái Dương mà có Hóa Kỵ tất nhiên hôn nhân gẫy vỡ, lúc nhỏ mồ côi cha hoặc xa cách, hoặc thiếu vì Thái Dương Hóa Kỵ như thế bất lợi hoàn toàn với những người thân thuộc nam tính. Ngoài ra còn có thể bị xảy thai, trụy thai.
Thái Dương hãm hội Riêu Kỵ, Thiên Hình hoặc Kình Đà khó tránh khỏi bệnh tật ở đôi mắt.
Lại là đôi mắt chẳng mong được cùng
Ắt rằng mắt chịu tật hình không ngoa
Gặp Riêu Kỵ rồi Kình Đà hay Hỏa Linh thì cũng thế.
Tương tự như tất cả các thùy não khác, thùy thái dương có hai bên trái và phải. Mỗi thùy nằm ngay phía sau vùng thái dương ở mỗi bên đầu, kéo dài về phía sau dọc theo bên não và kết thúc ở một điểm ngay sau tai.
Nhật Nguyệt tịnh minh gồm có Dương tại Thìn, Âm tại Tuất hoặc Dương tại Tỵ, Âm tại Dậu. Cách Nhật Nguyệt tịnh minh cũng như các cách khác cần Tả Hữu, Xương Khúc, Khoa Quyền Lộc, học đỗ cao, địa vị xã hội vững, kém hơn nếu bớt đi những phụ tinh, tuy nhiên không kể làm cách đặc biệt.
Nhật Nguyệt đồng cung Sửu Mùi, nếu Mệnh VCD Nhật Nguyệt Mùi hoặc Sửu thì chiếu đẹp hơn là thủ Mệnh. Căn cứ vào câu phú: “Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu”
Nhật Nguyệt đồng Mùi, Mệnh an Sửu hầu bá chi tài
Nhật Nguyệt Mệnh Thân cư Sửu Mùi, tam phương vô cát phản vi hung
Cách trên là cách Nhật Nguyệt chiếu, cách dưới là cách Nhật Nguyệt đồng thủ Mệnh.
Mấy người bất hiển công danh/ Bởi chưng Nhật Nguyệt đồng tranh Sửu Mùi “Nhật Mão, Nguyệt Hợi Mệnh Mùi cung, đa triết quế” nghĩa là Mệnh lập tại Mùi không chính tinh, Hợi Nguyệt chiếu lên, Nhật Mão chiếu qua học hành đỗ đạt cao, lấy vợ giàu sang.
Thí dụ Thái Dương tại Tỵ thì Cự Môn đương nhiên tại Hợi, nếu có Hóa Kỵ hợp với Cự Môn hẳn nhiên xấu, tranh đấu cho sự thành đạt khó khăn vất vả hơn gấp bội. Thái Dương đắc địa bị Hóa Kỵ dễ chiêu oán, nếu đi vào ngành thầy kiện, thầy cò, cảnh sát làm chức nghiệp sinh sống hợp hơn ngành khác.