Giới Thiệu Về Dân Tộc Việt Nam

Giới Thiệu Về Dân Tộc Việt Nam

Dân tộc Thái là một trong những dân tộc thiểu số lớn ở Việt Nam, với tổng số người khoảng hơn 1,8 triệu người và phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế

Dân tộc Thái là một trong những dân tộc thiểu số lớn ở Việt Nam, với tổng số người khoảng hơn 1,8 triệu người và phân bố chủ yếu ở các tỉnh miền núi phía Bắc như Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế

Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Cờ Lao

Thức ăn của người Cờ Lao chủ yếu được chế biến từ các sản phẩm trồng trọt và chăn nuôi. Thực phẩm chế biến từ các sản phẩm chăn nuôi bao gồm gà, lợn và dê.

Đặc điểm văn hóa, phong tục dân tộc Thái Việt Nam

Ngày nay, gạo tẻ đã trở thành nguồn lương thực chính trong ẩm thực của người Thái. Tuy nhiên, gạo nếp vẫn được coi là món ăn truyền thống của họ. Để chế biến gạo nếp, người Thái thường ngâm gạo qua đêm, sau đó đem đun lên và chế biến thành xôi. Món ăn này thường được kết hợp với ớt giã hoà muối, tỏi, các loại rau thơm, mùi, lá hành và thịt của các con vật ăn cỏ thuộc loài nhai lại như gan gà luộc chín, ruột cá, cá nướng… Tất cả được kết hợp lại gọi là món chéo.

Các món ăn của người Thái rất đa dạng, bao gồm cả các loại thịt của gia súc, gia cầm và các món cá, cua, ghẹ, tôm. Thịt được chế biến thành nhiều món như nộm, nhúng (lạp, cỏi), ướp muối, thính làm mắm, nướng, lùi, đồ, sấy, canh, xào, rang, luộc… Người Thái ưa thích các vị cay, chua, đắng, chát, bùi và ít sử dụng các vị ngọt, lợ, đậm, nồng. Trong ẩm thực của họ, nước mắm và rượu cần là hai loại gia vị không thể thiếu.

Ngoài ra, người Thái cũng có thói quen hút thuốc lào bằng điếu ống tre hoặc nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm hoặc khô nỏ. Trước khi hút, họ thường có thói quen mời các vị khách xung quanh như trước khi ăn.

Trước đây, người Thái theo chế độ hôn nhân mua bán và theo truyền thống, việc lấy vợ và lấy chồng phải qua nhiều bước, trong đó có hai bước chính:

Tuy nhiên, hiện nay, việc lấy vợ và lấy chồng của người Thái đã thay đổi nhiều, phù hợp với tình hình xã hội hiện đại.

Lễ tang của người Thái gồm hai bước chính:

Người Thái Đen thường tổ chức lễ cúng tổ tiên vào tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch hàng năm. Trong lễ cúng, người Thái Đen sẽ đưa các món đồ và thức ăn lên bàn cúng, gọi là “bàn tổ”, để tưởng nhớ và tôn vinh tổ tiên của mình.

Người Thái Trắng lại tổ chức lễ tết theo lịch âm. Trong dịp này, họ thường dùng các loại thực phẩm truyền thống như bánh chưng, bánh giầy, thịt lợn, gà, và rượu để cúng tết và chúc mừng.

Còn bản Mường thì tổ chức nhiều loại lễ cúng khác nhau, bao gồm cúng thần đất, thần nước, thần núi và các linh hồn của người đã khuất. Những lễ cúng này thường được tổ chức vào các dịp đặc biệt hoặc vào các ngày lễ quan trọng.

Các nhóm người Thái, bao gồm Thái Trắng và Thái Đen, có nhiều điểm chung trong trang phục hằng ngày, tuy nhiên vẫn có nét đặc trưng riêng để phân biệt. Phụ nữ Thái Trắng thường mặc áo cánh ngắn màu sáng, trắng, có thể được cài cúc bạc tạo hình bướm hoặc ong; váy thường màu đen không có hoa văn. Khăn đội đầu bằng vải chàm dài khoảng hai mét.

Mặc dù có những điểm khác biệt trong trang phục, nhưng cả phụ nữ Thái Trắng và Thái Đen đều rất tinh tế và tỉ mỉ trong cách ăn mặc, tạo nên nét đẹp riêng của mỗi nhóm.

Ở Việt Nam, có hai nhóm Thái lớn là Thái Trắng và Thái Đen, cùng với một vài nhóm nhỏ khác. Nhà của người Thái Trắng có nhiều đặc điểm giống với nhà của người Tày-Nùng, trong khi nhà của người Thái Đen lại gần với nhà của các dân tộc Môn-Khơ Me.

Nhà Thái Đen có nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ được trang trí theo nhiều kiểu khác nhau.

Bộ khung nhà của người Thái Đen có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Khay điêng tương tự như khứ kháng của người Tày-Nùng, nhưng có thêm hai cột để mở rộng. Cách bố trí trên mặt bằng của nhà Thái Đen khá độc đáo: mỗi gian đều có tên riêng, và trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành cho nơi ngủ của các thành viên trong gia đình và một nửa dành cho bếp và tiếp khách nam.

Dân tộc Cờ Lao (hay còn được gọi là Gelao, Ke Lao) là một dân tộc cư trú ở vùng đông nam Trung Quốc và miền nam Việt Nam. Họ là một trong 54 dân tộc của Việt Nam và được công nhận là một trong 56 dân tộc chính thức của Trung Quốc.

Phong tục cưới hỏi và hôn nhân

Tục lệ cưới xin của người Cờ Lao khác nhau tùy theo từng nhóm. Tuy nhiên, trong nhóm Cờ Lao Xanh, chú rể sẽ mặc áo dài màu xanh và cuốn khăn màu đỏ qua người. Trong khi đó, cô dâu sẽ phải dẫm vỡ một cái bát và một cái muôi gỗ đã được sắp đặt trước cổng khi đến cổng nhà chồng. Ngoài ra, trong nhóm Cờ Lao Đỏ, cô dâu chỉ ngủ lại nhà chồng đêm hôm đón dâu.

Tuy nhiên, cách cưới kéo vợ hoặc cướp vợ cũng vẫn thường xảy ra tại một số nhóm người Cờ Lao, tương tự như trong văn hóa của người H’Mông.

Theo phong tục của người Cờ Lao, con trai sẽ được lấy vợ là con gái của cậu. Phụ nữ Cờ Lao khi mang thai thường kiêng cữ cẩn thận để đảm bảo sinh con khỏe mạnh. Tại vùng Đồng Văn, truyền thống đốt nhau của trẻ sơ sinh thành than, sau đó đem bỏ vào hốc đá trên rừng để tránh cho động vật như chó hay lợn giẫm vào. Sau khi sinh ra được 3 ngày 3 đêm (nếu là con trai) hoặc 2 ngày 3 đêm (nếu là con gái), cha mẹ sẽ tổ chức lễ đặt tên cho con. Đứa con đầu lòng thường được bà ngoại đặt tên.

Khi người Cờ Lao qua đời, gia đình sẽ tổ chức lễ chôn cất và lễ chay. Theo truyền thống, khi chôn cất, người thân sẽ xếp đá thành từng vòng quanh mộ, mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết. Sau đó, đất sẽ được lấp kín những vòng đá ấy.

Trong nghi lễ tang, người Cờ Lao có phong tục làm hai lần ma: lễ chôn và lễ làm chay. Ngay sau khi lễ chôn hoặc một vài năm sau đó, người Cờ Lao Xanh có thể tiến hành lễ làm chay. Trong lễ cúng, người chết được đưa hồn về Chan San, quê hương cổ xưa. Trong khi đó, người Cờ Lao Ðỏ có phong tục xếp đá quanh mộ. Cứ mỗi 10 tuổi của người đã mất, người thân sẽ xếp thêm một vòng đá quanh mộ. Các vòng đá tuổi được phủ kín đất và trên cùng còn có thêm một vòng đá nữa.

Người Cờ Lao ăn Tết Nguyên đán, Tết Mùng 3 tháng 3, mùng 5 tháng 5, 15 tháng 7 và mùng 9 tháng 9 âm lịch như nhiều dân tộc ở vùng đông bắc Việt Nam.

Giáo dục và ngôn ngữ dân tộc Cờ Lao

Đối với giáo dục, theo số liệu của Điều tra 53 dân tộc thiểu số năm 2019, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết chữ phổ thông chiếm 58,2%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp tiểu học chiếm 103,4%. Tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học cơ sở là 83,1%, tỷ lệ đi học chung của trẻ em ở cấp trung học phổ thông là 37,4%. Tỷ lệ trẻ em ngoài trường là 17,6%.

Ngôn ngữ của người Cờ Lao thuộc nhóm ngôn ngữ Ka Đai, cùng nhóm với tiếng La Ha, La Chí, Pu Péo (ngữ hệ Thái – Ka Đai). Trước đây, các nhóm địa phương có phương ngữ khác nhau, nhưng hiện nay đa số người Cờ Lao đỏ, Cờ Lao xanh không còn nói được tiếng mẹ đẻ của mình nữa. Tuỳ theo quá trình tiếp xúc, cộng đồng họ quen sử dụng tiếng Quan họa, tiếng Nùng hay tiếng Pu Péo, Hmong.

Giới thiệu dân tộc Cờ Lao Việt Nam

Dân tộc Cờ Lao là một trong những dân tộc thiểu số ở Việt Nam, với số lượng người hiện nay khoảng hơn 160.000 người. Người Cờ Lao có nguồn gốc từ Trung Quốc và đã di cư sang Việt Nam từ rất lâu đời. Theo các nghiên cứu lịch sử, những nhóm người Cờ Lao đầu tiên đã đến Việt Nam khoảng từ 150 đến 200 năm trước đây. Sau đó, những đợt di cư tiếp theo của họ đã kéo dài suốt nhiều thế kỷ, cho đến khoảng 60 – 80 năm trước đây.